Lịch sử hoạt động North_American_P-51_Mustang

Không lực Lục quân Hoa Kỳ

Các phi công ưu tú toàn người Mỹ da màu thuộc Phi Đoàn Tiêm kích 332 (Tuskegee Airmen) tại Ramitelli, Ý. Từ trái sang phải: Trung úy Dempsey W. Morgran, Trung úy Carroll S. Woods, Trung úy Robert H. Nelron, Jr., Đại úy Andrew D. Turner và Trung úy Clarence P. Lester.

Tại Hội nghị Casablanca, phe Đồng Minh đã đề ra kế hoạch Phối hợp Tấn công Ném bom (CBO) liên tục không ngừng nghỉ do Không quân Hoàng gia Anh thực hiện vào ban đêm và bởi Không lực Mỹ vào ban ngày. Học thuyết ném bom Hoa Kỳ trước chiến tranh cho rằng những đội hình lớn của những máy bay ném bom hạng nặng bay ở tầm cao có khả năng tự bảo vệ chúng trước các máy bay tiêm kích đánh chặn đối phương và chỉ cần máy bay tiêm kích hộ tống ở mức tối thiểu, cho nên việc ném bom chính xác ban ngày bằng thiết bị ngắm ném bom Norden sẽ có hiệu quả.

Cả Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Đức đều đã từng cố gắng thực hiện ném bom ngày và đều phải bỏ dỡ, tin rằng những tiến bộ gần đây trong các kiểu máy bay tiêm kích một động cơ đã làm cho những chiếc máy bay ném bom nhiều động cơ trở nên mong manh, đi ngược lại học thuyết của Giulio Douhet. Không quân Hoàng gia Anh đã lo ngại về việc này vào giữa những năm 1930 và đã quyết định thành lập lực lượng toàn máy bay ném bom đêm, nhưng sau đó bắt đầu các hoạt động ném bom ngày. Người Đức đã cho ném bom rộng rãi vào ban ngày trong quá trình Trận chiến Anh Quốc nhằm chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ trong tương lai; nhưng do bị tổn thất nặng, Không quân Đức không lâu sau phải chuyển sang ném bom đêm. Bộ Chỉ huy Ném bom (Anh Quốc) cũng làm như vậy trong những vụ oanh tạc vào nước Đức.

Các nỗ lực ban đầu của Không lực Mỹ chưa thể rút ra kết luận gì do quy mô hạn chế của chúng. Đến tháng 6 năm 1943 Hội đồng Tham mưu trưởng đề ra Chiến dịch Pointblank nhằm tiêu diệt Không quân Đức trước khi đổ bộ lên châu Âu, đưa kế hoạch ném bom phối hợp vào hoạt động. Lực lượng máy bay ném bom hạng nặng của Không lực 8 thực hiện một loạt các cuộc không kích thâm nhập sâu trong lãnh thổ nước Đức bên ngoài tầm hoạt động của những máy bay tiêm kích hộ tống hiện có. Phản ứng của các máy bay tiêm kích Đức thật ác liệt và những máy bay ném bom bị tổn thất nặng; lên đến 20% trong cuộc ném bom lần thứ hai xuống các nhà máy sản xuất vòng bi tại Schweinfurt vào ngày 14 tháng 10 năm 1943. Tổn thất cao làm cho không thể tiếp tục thực hiện các cuộc không kích tầm xa như vậy mà không có máy bay tiêm kích theo hộ tống đầy đủ.

Chiếc máy bay tiêm kích hai động cơ Lockheed P-38 Lightning vốn có tầm bay đủ xa để hộ tống những chiếc máy bay ném bom, nhưng chúng chỉ hiện diện với số lượng rất hạn chế tại Mặt trận châu Âu, do việc bảo trì kiểu động cơ Allison gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do phẩm chất xăng tại châu Âu. Do những chiếc P-38 được sử dụng rộng rãi tại Mặt trận Thái Bình Dương và có nhu cầu rất lớn, nơi mà kiểu máy bay hai động cơ chứng tỏ tính sống còn trong những phi vụ tầm xa "trên mặt nước", hầu như tất cả các đơn vị sử dụng P-38 tại châu Âu đều chuyển sang sử dụng P-51 vào năm 1944. Chiếc máy bay tiêm kích Republic P-47 Thunderbolt cũng có khả năng đối đầu Không quân Đức với ít nhiều lợi thế, nhưng cho đến lúc đó chưa có đủ tầm bay xa. Chiếc Mustang đã giúp thay đổi được tất cả những điều đó. Nhìn chung, chiếc Mustang ít nhất cũng đơn giản như những chiếc máy bay tiêm kích khác cùng thời. Nó sử dụng một động cơ thuộc loại quen thuộc, tin cậy, và có đủ chỗ bên trong cho một trữ lượng nhiên liệu lớn. Với các thùng nhiên liệu phụ bên ngoài, nó có thể bay kèm theo những chiếc máy bay ném bom suốt quãng đường đến Đức rồi quay trở về.

Phi công vận chuyển Florene Watson, thuộc đơn vị Nữ phi công Phục vụ Không lực (WASP), đang khởi động động cơ của chiếc P-51.

Đã có một số máy bay tiêm kích P-51 dành cho Không lực 8 và Không lực 9 vào mùa Đông 1943-1944, và khi Chiến dịch Pointblank được tiếp nối trở lại vào năm 1944, tình huống đã thay đổi một cách ngoạn mục. Chiếc P-51 trở thành một công cụ hoàn hảo trong nhiệm vụ hộ tống máy bay ném bom suốt quãng đường bay đến mục tiêu và quay trở về, do đó bổ sung cho những chiếc P-47 có số lượng nhiều hơn cho đến khi có đủ số máy bay Mustang. Không lực 8 lập tức bắt đầu chuyển đổi các liên đội tiêm kích của họ sang sử dụng Mustang, trước tiên là hoán đổi các liên đội P-47 mới đến cho các liên đội thuộc Không lực 9 đang sử dụng P-51, rồi dần chuyển đổi các liên đội Thunderbolt và Lightning của họ. Cho đến cuối năm 1944, 14 trong số 15 liên đội tiêm kích của Không lực 8 đã sử dụng Mustang.[37]

Các phi công Không quân Đức thường cố né tránh các máy bay tiêm kích Mỹ bằng cách tấn công hằng loạt với số lượng lớn phía trước những chiếc máy bay ném bom, tấn công một lần lướt qua, rồi cắt rời cuộc tấn công, không cho những chiếc máy bay tiêm kích có nhiều thời gian để phản ứng. Trong khi không thể hoàn toàn né tránh những chiếc máy bay tiêm kích hộ tống (thể hiện nơi tổn thất rất cao của Đức vào mùa Xuân năm 1944), mối đe dọa tấn công hàng loạt, và sau này kiểu tấn công "đại đội hàng ngang" (đội hình tám chiếc) Sturmgruppe Fw 190 có vỏ bọc thép chắc chắn, đưa đến việc phải khẩn cấp tấn công Không quân Đức ở bất cứ nơi đâu có thể gặp chúng. Chiếc P-51, đặc biệt với việc phát minh ra bộ ngắm súng K-14 và việc phát triển "Trường Clobber" để huấn luyện phi công tiêm kích ngay tại mặt trận vào mùa Thu năm 1944, là những yếu tố quyết định cho cuộc phản công của phe Đồng Minh chống lại Jagdverbände.

Bắt đầu từ cuối tháng 2 năm 1944, Không lực 8 khởi sự tấn công bắn phá các sân bay Đức một cách có hệ thống, được lựa chọn theo tần suất và cường độ trong suốt mùa Xuân, nhằm mục đích đặt được ưu thế trên không bên trên chiến trường Normandy. Một cách tổng quát những phi vụ này được thực hiện bởi những đơn vị đang trên đường quay về sau các phi vụ hộ tống, nhưng bắt đầu từ tháng 3 nhiều nhóm được giao các nhiệm vụ tấn công sân bay thay vì hộ tống ném bom. Vào ngày 15 tháng 4 Không lực 8 bắt đầu chiến dịch Jackpot, tấn công các sân bay chuyên dùng của lực lượng tiêm kích Không quân Đức, và đến ngày 21 tháng 5 mở rộng ra các mục tiêu khác bao gồm hệ thống đường sắt, đầu máy tàu hỏa và kho tàng được Đức sử dụng để vận chuyển tiếp liệu và lực lượng trong các phi vụ đặt tên là "Chattanooga".[38] Chiếc P-51 cũng nổi trội trong những phi vụ này, cho dù tổn thất có cao hơn khi tấn công mặt đất so với vai trò chiến đấu không chiến, một phần là do sự mong manh của hệ thống tản nhiệt của chiếc Mustang đối với hỏa lực súng nhỏ mặt đất. Giống như những máy bay tiêm kích khác cùng sử dụng hệ thống làm mát bằng chất lỏng, chỉ cần một viên đạn duy nhất là có thể bắn thủng hệ thống tản nhiệt của chiếc Mustang.

Ưu thế áp đảo về số lượng của những máy bay tiêm kích Không lực Lục quân Hoa Kỳ, đặc tính bay xuất sắc của chiếc P-51 và trình độ của phi công đã làm lụn bại Không quân Đức. Kết quả là mối đe dọa tiêm kích đánh chặn cho những máy bay ném bom Mỹ, và sau đó là Anh, đã giảm đi đáng kể vào mùa Hè năm 1944.Thống chế Hermann Göring, tư lệnh Không quân Đức trong thời kỳ chiến tranh, được trích dẫn đã phát biểu: "Khi tôi nhìn thấy những chiếc Mustang bên trên bầu trời Berlin, tôi biết là mọi thứ đã hết hy vọng."[39]

Ở miền Bắc nước Ý, P-51 Mustang phải đối đầu cùng một đối thủ ít nổi tiếng nhưng tỏ ra kiên cường, chiếc Macchi C.205 Veltro. Với tốc độ tối đa lên đến khoảng 640 km/h (400 dặm mỗi giờ) và được trang bị một cặp pháo 20 mm cùng các súng máy Breda 12,7 mm, kiểu MC 205 được cả phi công Đồng Minh lẫn phi công Đức ngưỡng mộ. Trong hoạt động, chúng tỏ ra khá hiệu quả, khi những chiếc Veltros phục vụ cho nước Cộng hoà Salò từng tiêu diệt được một số máy bay ném bom Đồng Minh và thách thức những chiếc P-51D Mustang.[40] Vào giữa tháng 2 năm 1944, Liên đội 1 Không quân Ý được chuyển đến một căn cứ ở ngoại vi Reggio Emilia với nhiệm vụ tấn công các máy bay ném bom hạng nặng Đồng Minh cùng những chiếc P-51 theo hộ tống. Các cuộc không chiến với kiểu máy bay mới tốt nhất thời đó là một áp lực lớn đối với các phi công Ý, và họ cũng đã tìm cách bắn hạ được 58 chiếc Mustang với giá phải trả cũng rất nặng nề.[41]

Chiếc P-51D "Glamorous Glennis III" của phi công thử nghiệm tương lai Chuck Yeager, mang số hiệu 44-14888 thuộc Phi đội 363, Liên đội 357 của Không lực 8 th. Trên chiếc này ông đã thực hiện phần lớn trong tổng số 12,5 chiến công của mình.

P-51 cũng hoạt động hữu hiệu trong việc chống lại các tên lửa và máy bay phản lực tiên tiến của đối phương. Một chiếc P-51B/C với nhiên liệu có chỉ số octane cao sẽ đủ nhanh để tấn công những quả bom bay V-1 được phóng về phía Luân Đôn. Chiếc máy bay đánh chặn tên lửa Me 163 Komet và máy bay tiêm kích phản lực Me 262 được cho là nhanh hơn chiếc P-51, nhưng không phải là không thể bị tấn công được, vì chúng tỏ ra mong manh mỗi khi cất và hạ cánh. Chuck Yeager, lái một chiếc P-51D, là một trong những phi công Hoa Kỳ đầu tiên đã bắn rơi một chiếc Me 262 khi ông bất ngờ tấn công nó khi nó đang chuẩn bị hạ cánh.Vào ngày 7 tháng 10 năm 1944, Trung úy Urban Drew thuộc Liên đội 365 trong một phi vụ tuần tra càn quét đã bất ngờ tấn công và bắn rơi hai chiếc Me 262 đang cất cánh. Cùng ngày hôm đó, Hubert Zemke đang lái một chiếc Mustang đã bắn rơi một chiếc máy bay đối phương mà ông nghĩ là một chiếc Bf 109, chỉ khi những hình ảnh quay được mới cho thấy đó lại là một chiếc Me 262.[42] Ngày 1 tháng 11 năm 1944, phi công lái Mustang một lần nữa chứng tỏ mối đe dọa từ kiểu máy bay phản lực có thể cân bằng với số đông. Trong khi bay hộ tống những chiếc B-17, Liên đội Tiêm kích 20 bị một chiếc Me 262 tấn công, và một chiếc P-51 bay đơn lẻ bị bắn rơi. Sau đó Me 262 tìm cách tấn công những chiếc máy bay ném bom, nhưng bị ngăn chặn bởi đội hình hỗn hợp những chiếc P-51 và P-47. Cuối cùng một phi công P-47 thuộc phi đội 56 và các Trung úy phi công lái Mustang Gerbe và Groce của Liên đội 352 đã cùng chia sẻ chiến công này.[43]

Đến ngày 8 tháng 5 năm 1945[44], tất cả các liên đội tiêm kích của Không lực 8, Không lực 9 và Không lực 15, ngoại trừ ba liên đội, đều đã sử dụng một kiểu máy bay khác trước khi chuyển sang sử dụng Mustang, và đã ghi được khoảng 4.950 chiến công không chiến (khoảng phân nửa của tất cả các chiến công của Không Lực Mỹ tại Mặt trận châu Âu), số lượng lớn nhất mà một kiểu máy bay tiêm kích Đồng Minh từng ghi được trong đối đầu không chiến [44] và tiêu diệt thêm 4.131 máy bay trên mặt đất với số máy bay bị thiệt hại là vào khoảng 2.520 chiếc.[45]

Một trong những liên đội này, Liên đội Tiêm kích 4 thuộc Không lực 8 là đơn vị có thành tích cao nhất tại châu Âu với 1.016 máy bay địch bị tiêu diệt, gồm 550 chiếc trong không chiến và 466 chiếc trên mặt đất.[46] Trong không chiến, những đơn vị P-51 có thành tích cao nhất (tất cả đều chỉ bay Mustang) là Liên đội Tiêm kích 357 thuộc Không lực 8 với 595 chiến công không chiến, và Liên đội Tiêm kích 354 thuộc Không lực 9 với 701 chiến công, là những đơn vị có chiến công không chiến cao nhất của mọi kiểu máy bay. Martin Bowman báo cáo rằng Mustang tại Mặt trận châu Âu đã thực hiện 213.873 phi vụ và bị tổn thất 2.520 máy bay do nhiều nguyên nhân. Phi công Ách lái Mustang có thành tích cao nhất là George Preddy của Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Tổng số chiến công của ông là 27,5 trong đó 24 được ghi cùng kiểu máy bay P-51; cho đến khi ông bị thiệt mạng vì hỏa lực bắn nhầm của đồng đội vào ngày Giáng Sinh năm 1944 trong Trận Bulge.[44]

Những chiếc P-51 được bố trí đến Viễn Đông trễ hơn trong năm 1944, hoạt động trong cả vai trò hỗ trợ gần mặt đất và hộ tống ném bom.

Hoạt động sau Thế Chiến II

F-51 Mustang lăn bánh qua các vũng nước tại Triều Tiên, chất đầy bom và rocket.

Tiếp theo sau Thế Chiến II, Không lực Lục quân Hoa Kỳ cũng cố lại lực lượng chiến đấu thời chiến của họ, và chọn chiếc P-51 như là kiểu máy bay tiêm kích trang bị động cơ piston "tiêu chuẩn" trong khi những kiểu khác như P-38 LightningP-47 Thunderbolt được rút khỏi phục vụ hay được giao những vai trò hạn chế. Tuy nhiên, khi có nhiều kiểu máy bay tiêm kích phản lực tiên tiến như P-80 Shooting StarP-84 Thunderjet được đưa ra sử dụng, chiếc P-51 cũng được đưa xuống vai trò thứ yếu.

Vào năm 1947, Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ mới thành lập đã sử dụng những chiếc Mustang chung với các kiểu F-6 Mustang và F-82 Twin Mustang, do khả năng về tầm bay xa của chúng. Đến năm 1948, tên gọi P-51 (P: pursuit/tấn công) được thay đổi thành F-51 (F: fighter/tiêm kích) và tên gọi F dành cho máy bay trinh sát hình ảnh bị loại bỏ do cách đặt tên mới áp dụng cho Không quân Mỹ. Những máy bay còn hoạt động trong Không quân Hoa kỳ và Không lực Vệ Binh Quốc gia (ANG) khi thay đổi hệ thống tên gọi bao gồm: F-51B, F-51D, F-51K, RF-51D (trước đây là F-6D), RF-51K (trước đây là F-6K) và TRF-51D (phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi của F-6D). Chúng được sử dụng từ năm 1946 đến năm 1951. Đến năm 1950, cho dù Mustang tiếp tục phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ và nhiều nước khác sau chiến tranh, đa số những chiếc Mustang của Không quân Mỹ được xem là dư thừa và được chuyển do Không quân Dự bị (AFRES) và Không lực Vệ Binh Quốc gia (ANG).

Máy bay F-51D Không quân Hoa Kỳ đang ném bom napalm xuống một mục tiêu ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Trong Chiến tranh Triều Tiên, chiếc F-51 cho dù đã là một kiểu máy bay tiêm kích lạc hậu, đã được sử dụng như là máy bay ném bom chiến thuật và máy bay trinh sát cho đến hết cuộc chiến vào năm 1953.[47] Do cấu trúc nhẹ hơn và khan hiếm phụ tùng thay thế, phiên bản F-51H mới và nhanh hơn đã không được đưa ra sử dụng tại Triều Tiên. Do chiếc máy bay được sử dụng trong vai trò tấn công mặt đất, tính năng bay đã không được chú trọng cho bằng tải trọng chiến đấu.

Lúc bắt đầu Chiến tranh Triều Tiên, một lần nữa chiếc Mustang lại tỏ ra hữu dụng. Do kiểu máy bay F-51D sẵn có đang hoạt động và sẵn có trong dự trữ, một số lượng lớn đã được chuyên chở bằng các tàu sân bay sang khu vực chiến sự để được Không quân Cộng hòa Hàn Quốc và Không quân Mỹ sử dụng. Thay vì dùng chúng như là máy bay tiêm kích đánh chặn hay máy bay tiêm kích "thuần túy", chiếc F-51 lại được giao vai trò tấn công mặt đất, trang bị rocket và bom. Sau cuộc tấn công từ phía Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, các đơn vị Không quân Mỹ bị buộc phải cất cánh từ các căn cứ ở Nhật Bản, và những chiếc F-51D đã có thể tấn công các mục tiêu tại Triều Tiên mà những chiếc máy bay tiêm kích phản lực F-80 Shooting Star đã không thể với tới. Mối lo ngại chủ yếu đối với nó là sự mong manh của hệ thống tản nhiệt khi phải chịu tổn thất cao do hỏa lực từ mặt đất. Những chiếc Mustang tiếp tục hoạt động cùng các đơn vị tiêm kích-ném bom của Không quân Mỹ, Không quân Cộng hòa Hàn Quốc, trong các phi vụ can thiệp và hỗ trợ gần mặt đất cho đến khi chúng được thay thế phần lớn bởi kiểu máy bay tiêm kích-ném bom phản lực Republic F-84Grumman Panther vào năm 1953. Phi đội 77 Không quân Hoàng gia Australia (RAAF) sử dụng những chiếc Mustang do họ chế tạo trong thành phần Lực lượng khối Thịnh vượng chung tại Triều Tiên, và đã thay thế chúng bằng những chiếc Gloster Meteor F8 vào năm 1951. Phi đội 2 của Không quân Nam Phi (SAAF) sử dụng những chiếc Mustang do Mỹ chế tạo trong thành phần của Phi đoàn Tiêm kích-Ném bom 18, và phải chịu đựng nhiều thiệt hại cho đến năm 1953. Cho đến khi họ chuyển sang sử dụng kiểu F-86 Sabre.

Một chiếc F-51D của Không lực Vệ Binh Quốc gia West Virginia

Những chiếc F-51 phục vụ cùng Không quân Trừ bị Hoa KỳKhông lực Vệ binh Quốc gia trong suốt những năm 1950. Chiếc Mustang cuối cùng P-51D-30-NA mang số hiệu 44-74936, được rút khỏi hoạt động của Không lực Vệ binh Quốc gia West Virginia vào năm 1957, và nó hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Wright-PattersonDayton, Ohio. Tuy nhiên, nó lại được sơn như là chiếc P-51D-15-NA mang số hiệu 44-15174.[48]

Việc rút những chiếc máy bay tiêm kích Mustang cuối cùng ra khỏi hoạt động của Không quân Hoa Kỳ đã đẩy hàng trăm chiếc P-51 ra thị trường máy bay dân sự. Quyền sở hữu thiết kế những chiếc Mustang giờ đây đã được North American bán cho Cavalier Aircraft Corporation, vốn đang nỗ lực tiếp thị nó ra thị trường Mỹ và nước ngoài. Vào năm 1967 và một lần nữa vào năm 1972, Không quân Mỹ đã mua lại nhiều lô máy bay Mustang tái chế từ Cavalier, đa số được gửi đến không lực của nhiều nước tại Nam MỹChâu Á tham gia vào Chương trình Viện trợ Quân sự (MAP). Những chiếc máy bay này được tái chế từ những khung máy bay F-51D nguyên thủy sẵn có nhưng được trang bị động cơ V-1650-7, thiết bị radio mới, cánh đuôi đứng kiểu của phiên bản F-51H, và cánh chắc chắn hơn có thể mang sáu súng máy 12,7 mm (0,50 inch) và tám đế dưới cánh có thể mang hai bom 454 kg (1000 lb) và sáu rocket 127 mm (5 inch). Chúng đều có nóc buồng lái nguyên thủy của chiếc F-51D, nhưng có thêm một chỗ ngồi phía sau phi công dành cho quan sát viên. Một chiếc Mustang huấn luyện trang bị hai bộ điều khiển bay mang tên TF-51D (số hiệu 67-14866) với nóc buồng lái mở rộng và chỉ có bốn súng trên cánh. Mặc dù những chiếc Mustang tái chế này được dự định để bán cho các nước Nam Mỹ và châu Á trong chương trình viện trợ quân sự (MAP), nó được giao cho Không quân Hoa Kỳ với đầy đủ phù hiệu Mỹ. Tuy nhiên, chúng được mang loạt số hiệu mới (67-14862/14866, 67-22579/22582 và 72-1526/1541).[48] Chiếc Cavalier Mustang số hiệu 68-15796 ngày nay còn được giữ lại tại Bảo tàng Vũ khí Không quân tại căn cứ Không quân Eglin, Florida, được trưng bày trong nhà với màu sơn thời kỳ Thế Chiến II.

Công việc sử dụng chiếc F-51 trong quân đội Mỹ cuối cùng là vào năm 1968, khi Lục quân Hoa Kỳ sử dụng một chiếc F-51D cũ (số hiệu 44-72990) như một máy bay săn đuổi trong đề án phát triển chiếc máy bay trực thăng vũ trang Lockheed YAH-56 Cheyenne. Chiếc máy bay này hoạt động thành công đến mức Lục quân đặt mua hai chiếc F-51D từ Cavalier vào năm 1968 để sử dụng tại Fort Rucker như những máy bay săn đuổi; chúng được mang số hiệu 68-15795 và 65-15796, có thùng nhiên liệu phụ ở đầu cánh và không vũ trang. Sau khi kết thúc chương trình phát triển Cheyenne, hai chiếc máy bay săn đuổi được sử dụng cho các dự án khác. Một chiếc (số hiệu 68-15795) được trang bị súng không giật 106 mm nhằm thử nghiệm giá trị của kiểu vũ khí này để tấn công các mục tiêu công sự vững chắc trên mặt đất.[49]

Chiếc F-51 được không quân nhiều nước sử dụng, là tiếp tục là kiểu máy bay tiêm kích có hiệu quả đến tận giữa những năm 1980 với các không lực nhỏ. Chiếc Mustang cuối cùng bị bắn rơi là trong Chiến dịch Power Pack tại Cộng hòa Dominico vào năm 1965, trong khi chiếc cuối cùng được Không quân Cộng hòa Dominico cho nghỉ hưu là vào năm 1984.[50]

Hoạt động tại các nước khác

Sau Thế Chiến II, P-51 Mustang phục vụ trong quân đội của hơn 55 nước.[2] Trong chiến tranh, mỗi chiếc Mustang trị giá khoảng 51.000 Đô la[1] trong khi có hàng trăm chiếc được bán sau chiến tranh với giá tượng trưng một Đô la cho những nước châu Mỹ tham gia Hiệp ước Trợ giúp Hỗ tương Liên Mỹ được phê chuẩn vào năm 1947 tại Rio de Janeiro.[51] Dưới đây là danh sách một số nước từng sử dụng P-51 Mustang.

 Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc IrelandKhông quân Hoàng gia Anh là lực lượng không quân đầu tiên sử dụng chiếc P-51, vốn nguyên thủy được thiết kế để đáp ứng những yêu cầu của họ. Những chiếc P-51A Mustang I đầu tiên được đưa vào sử dụng vào năm 1941, mang phù hiệu tiêu chuẩn của Không quân Hoàng gia Anh. Do tính năng bay bay ở tầm cao khá kém, những chiếc Mustang nhanh chóng được chuyển cho Lục quân trong vai trò phối hợp bộ binh và tiêm kích-trinh sát. Vào ngày 27 tháng 7 năm 1942, mười sáu chiếc Mustang Không quân Hoàng gia đã tiến hành phi vụ trinh sát tầm xa đầu tiên bên trên lãnh thổ Đức. Trong Chiến dịch Jubilee (Trận không kích Dieppe) ngày 19 tháng 8 năm 1942, đã có sự tham gia của bốn phi đội Mustang Anh Quốc và Canada, bao gồm Phi đội Không quân Hoàng gia Anh 26. Đến năm 1943/1944, những chiếc Mustang Anh Quốc được sử dụng rộng rãi để tìm diệt những địa điểm bố trí V-1. Những chiếc Mustang I và Mustang II cuối cùng của Không quân Hoàng gia được rút khỏi phục vụ vào năm 1945. Không quân Hoàng gia Anh đã sử dụng nhiều chiếc Mustang III (P-51B/C), những đơn vị đầu tiên được chuyển sang kiểu này vào những năm 1943/1944. Các đơn vị trang bị Mustang III tiếp tục hoạt động cho đến lúc kết thúc Thế Chiến II, cho dù nhiều đơn vị đã chuyển sang kiểu Mustang IV (P-51D/K). Những phi công không quân Hoàng gia tỏ ra ưa chuộng kiểu RAF Mustang III (với nóc buồng lái kiểu Malcolm), nhưng các đơn vị được tái trang bị bằng kiểu Mustang IV. Vì những chiếc máy bay Mustang thuộc vào loại trang bị Cho thuê-Cho mượn, mọi chiếc máy bay còn lại cùng với Không quân Hoàng gia Anh vào lúc kết thúc chiến tranh được hoàn trả "trên giấy tờ" cho Không lực Mỹ hoặc giữ lại Anh để được tháo dỡ. Chiếc Mustang cuối cùng được cho nghỉ hưu vào năm 1947.[52] Ba LanChiếc Mustang Mk III của Quân đội Ba Lan trang bị nóc buồng lái kiểu Malcolm; được sử dụng bởi Trung tá Không quân Tadeusz Nowierski, chỉ huy trưởng Phi đoàn 3 Ba Lan, Căn cứ Không quân Hoàng gia Coolham, tháng 7 năm 1944.Trong Thế Chiến II, năm phi đội Không quân Ba Lan tại Anh đã sử dụng những chiếc Mustang. Đơn vị Ba Lan đầu tiên được trang bị (vào ngày 7 tháng 6 năm 1942) với kiểu Mustang Mk I là Nhóm B của Phi đội Ba Lan Hợp tác 309, và được tiếp nối bởi Nhóm A vào tháng 3 năm 1943. Sau đó, Phi đội 309 được đổi tên thành Phi đội Tiêm kích-trinh sát Ba Lan 309 và là một bộ phận của Bộ chỉ huy Tiêm kích. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1943, các Phi đội Tiêm kích Ba Lan 306 và 315 nhận được những chiếc Mustangs Mk III (việc chuyển đổi kéo dài 12 ngày). Vào ngày 13 tháng 3 năm 1944, Phi đội Tiêm kích Ba Lan 316 nhận được những chiếc Mustang Mk III; việc tái trang bị đơn vị được hoàn tất vào cuối tháng 4. Đến ngày 20 tháng 10 năm 1944, những chiếc Mustang Mk I của Phi đội 309 được thay thế bằng những chiếc Mk III; và đến ngày 11 tháng 12 năm 1944, đơn vị lại được đổi tên một lần nữa thành Phi đội Tiêm kích Ba Lan 309. Vào năm 1945, Phi đội Tiêm kích Ba Lan 303 nhận được 20 chiếc Mustangs Mk IV/Mk IVA thay thế. Sau chiến tranh, từ ngày 6 tháng 12 năm 1946 đến ngày 6 tháng 1 năm 1947, cả năm phi đội Ba Lan trang bị Mustang được giải thể. Ba Lan đã hoàn trả khoảng 80 chiếc Mustangs Mk III và 20 chiếc Mustang Mk IV/IVA cho không quân Hoàng gia Anh, rồi được chuyển trả cho Chính phủ Hoa Kỳ.[53] BoliviaChín chiếc Cavalier F-51D (bao gồm hai chiếc TF-51s) được giao cho Bolivia, trong một chương trình được gọi là Peace Condor.[52] CanadaMột chiếc P-51D được phục chế mang huy hiệu Phi đội phụ thuộc Số 402 "City of Winnipeg" của Không quân Hoàng gia Canada.Canada có năm phi đội được trang bị Mustang trong Thế Chiến II. Các phi đội Không quân Hoàng gia Canada số 400, 414 và 430 sử dụng những chiếc Mustang Mk I (1942-1944) và các phi đội 441 và 442 lái những chiếc Mustang Mk III và IVA vào năm 1945. Sau chiến tranh, có tổng cộng 150 chiếc Mustang P-51D được mua và phục vụ cho hai phi đội thường trực số 416 "Lynx" và số 417 "City of Windsor", và sáu phi đội tiêm kích phụ thuộc: số 402 "City of Winnipeg," số 403 "City of Calgary," số 420 "City of London," số 424 "City of Hamilton," số 442 "City of Vancouver" và số 443 "City of New Westminster." Những chiếc Mustang được xem là lạc hậu vào năm 1956; nhưng có một số chiếc thuộc phiên bản nhiệm vụ đặc biệt tiếp tục phục vụ đến đầu những năm 1960Costa RicaKhông quân Costa Rica sử dụng bốn chiếc F-51 từ năm 1955 đến năm 1964.[52] CubaTheo những điều khoản của Hiệp ước Rio 1947, Mỹ đã cung cấp cho Cuba những chiếc F-51D Mustang.[54] Tuy nhiên, sau cuộc Cách mạng Cuba năm 1959, lực lượng Không quân Cách mạng Cuba (Fuerza Aerea Revolucionaria) đã sở hữu bất hợp pháp ba chiếc Mustang tư nhân được cho là đã mua lại từ Canada bởi những phái viên của Fidel Castro. Những chiếc P-51 Mustang này đã không được đưa vào hoạt động đủ sớm để tham gia cuộc cánh mạng. Trong vụ Sự kiện Vịnh Con Lợn, những chiếc Mustang bị hư hại trên mặt đất, và chúng được sửa chữa quá trễ để tham gia chiến đấu. Chúng phục vụ cho lực lượng không quân Cuba cho đến khi được thay thế bằng vũ khí do Liên Xô chế tạo vào đầu những năm 1960.[55] Cộng hòa DominicaKhông quân Cộng hòa Dominica (FAD) là lực lượng không quân châu Mỹ La tinh sử dụng F-51D nhiều nhất với sáu máy bay sở hữu được vào năm 1948; trong năm này họ cũng mua thêm 44 máy bay F-51D nguyên của Thụy Điển và một chiếc Mustang nữa không rõ nguồn gốc.[56] Đây cũng là nước cuối cùng sử dụng F-51 Mustang, với những chiếc cuối cùng được sử dụng cho đến năm 1984.[52] El SalvadorKhông quân El Salvado (FAS) đã mua năm chiếc Cavalier Mustang II (và một chiếc Cavalier TF-51 với bộ điều khiển kép), có các thùng nhiên liệu phụ ở đầu chót cánh để gia tăng tầm bay chiến đấu và động cơ Merlin nâng cấp. Thêm bảy chiếc P-51D Mustang cũng được đưa vào phục vụ.[52] GermanyNhiều chiếc P-51 đã bị rơi trong khi hoạt động tại Đức và bị Không quân Đức chiếm được. Chúng được sửa chữa và được "Zirkus Rosarius" hay "Rosarius Staffel" thử nghiệm đánh giá tại Göttingen. Chúng được sơn lại phù hiệu của Đức và màu vàng sáng trước mũi và dưới bụng để dễ nhận diện. Một số chiếc P-51B/C (kể cả những chiếc mang ký hiệu của T9+CK, T9+FK, T9+HK và T9+PK Không quân Đức) và ba chiếc P-51D đã chiếm được.[57] Một số chiếc P-51 được lực lượng Đồng Minh tìm thấy sau khi chiến tranh kết thúc, trong khi số còn lại bị rơi khi đang thử nghiệm.[58] GuatemalaKhông quân Guatemala (FAG) đã có 30 chiếc P-51 được đưa vào phục vụ từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1970.[52] Hà LanKhông quân Hoàng gia Hà Lan tại Đông Ấn thuộc Hà Lan nhận được 40 chiếc P-51 và sử dụng chúng trong cuộc xung đột tại Indonesia. Sau khi cuộc xung đột chấm dứt, Indonesia đã nhận được một số chiếc Mustang.[52] HaitiHaiti có hai chiếc Mustang khi Tổng thống Paul Eugène Magloire nắm quyền từ năm 1950 cho đến năm 1956. Chiếc cuối cùng được cho nghỉ hưu trong khoảng năm 1973-1974 và được bán cho Cộng hòa Dominica để làm phụ tùng thay thế.[59] Hàn QuốcNhững chiếc F-51D phục vụ trong Không quân Cộng hòa Hàn Quốc.Trong vòng một tháng sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, mười chiếc F-51D Mustang được cung cấp cho Không quân Cộng hòa Hàn Quốc vốn đang bị thiệt hại nặng như là một phần của Kế hoạch Bout One. Chúng được lái bởi cả các phi công Nam Trều Tiên, nhiều người trong số đó là cựu chiến binh của Lục quânHải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II lẫn các cố vấn Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Thiếu tá Dean Hess. Sau đó, có thêm nhiều chiếc được cung cấp từ nguồn dự trữ của Hoa Kỳ và Nam Phi, khi nước này chuyển sang sử dụng F-86 Sabre. Chúng đã tạo nên xương sống cho Không quân Nam Triều Tiên cho đến khi chúng được thay thế bởi những chiếc Sabre.[52] IndonesiaIndonesia sở hữu một số chiếc F-51 từ lực lượng Không quân Đông Ấn thuộc Hà Lan trong những năm 1949/1950. Những chiếc Mustang này đã được sử dụng chống lại lực lượng Khối Thịnh vượng chung Anh (Không quân Hoàng gia Anh, Australia và New Zealand) trong "Cuộc chiến đối đầu" với Indonesia vào đầu những năm 1960. Lần cuối cùng những chiếc Mustang được bố trí nhằm mục đích quân sự là chuyến hàng sáu chiếc Cavalier II Mustangs (không có thùng nhiên liệu đầu cánh) được giao cho Indonesia trong những năm 1972-1973, vốn được thay thế vào năm 1976.[60][61] IsraelP-51D at the Israeli Air Force Museum; the marking beneath the cockpit notes its participation in the wire-cutting operation at the onset of the Suez Crisis.Một vài chiếc P-51 Mustang đã được Israel mua một cách bất hợp pháp vào năm 1948 để sử dụng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Israel và nhanh chóng chứng tỏ là kiểu máy bay tiêm kích tốt nhất mà Israel có được. Thêm một số máy bay nữa được mua từ Thụy ĐiểnNicaragua, và chúng được sử dụng trong Sự kiện kênh đào Suez và trong Chiến dịch Kadesh (1956) trước khi được thay thế bởi những chiếc máy bay phản lực vào cuối những năm 1950. Người ta đã cho rằng, trong cuộc xung đột này, một phi công Israel táo bạo đã cắt đứt liên lạc bằng dây điện thoại giữa thành phố Suez và tiền duyên phía Ai Cập bằng cánh quạt của chiếc Mustang.[62]. Nhật BảnChiếc P-51C-11-NT "Evalina" mang số hiệu "278" (số hiệu cũ của Không lực Mỹ là 44-10816) phục vụ tại Phi đội 26, Liên đội Tiêm kích 51, đã bị hỏa lực phòng không bắn trúng vào ngày 16 tháng 1 năm 1945 và phải hạ cánh bằng bụng xuống sân bay Suchon tại Trung Quốc vốn đang bị quân Nhật chiếm đóng. Người Nhật đã sửa chữa chiếc máy bay, vẽ phù hiệu Nhật và lái chiếc máy bay về Trung tâm đánh giá Fussa (ngày nay là Căn cứ Không quân Yokota) tại Nhật Bản.[52] NicaraguaNicaragua đã mua được 26 chiếc Mustang từ Thụy Điển vào năm 1954 và sử dụng chúng cho đến năm 1964.[52] New ZealandChiếc P-51D sơn huy hiệu Phi đội 3 (Canterbury) Không lực Lãnh thổ New Zealand (TAF), đang biểu diễn tại thao diễn hàng không 2007 Wings tại Wairarapa.New Zealand đã đặt mua 320 chiếc P-51 Mustang để thay thế một phần những chiếc F4U Corsair của họ tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương. Đã có 30 chiếc được giao hàng vào năm 1945 nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi chúng được đưa ra sử dụng; số còn lại đã được giữ lại Mỹ. Số 30 chiếc đã nhận được giữ trong kiện hàng cho đến tận năm 1950 khi chúng được đưa ra sử dụng cùng Không lực Lãnh thổ New Zealand (TAF) tại các Phi đội 1 Auckland, Phi đội 2 Wellington, Phi đội 3 Canterbury và Phi đội 4 Otago. Không lực Lãnh thổ được giải tán vào năm 1957 và những chiếc Mustang được cho nghỉ hưu, một chiếc được Phi đội 42 Không quân Hoàng gia New Zealand giữ lại sử dụng trong vai trò kéo mục tiêu giả, trong khi những chiếc còn lại bị bán sắt vụn. Các phi công Không quân New Zealand trong đội ngũ Không quân Hoàng gia Anh cũng từng lái P-51 và có ít nhất một phi công New Zealand từng ghi được nhiều chiến công trên bầu trời châu Âu khi được biệt phái đến một phi đội P-51 Không lực Mỹ. Một chiếc Mustang hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Không quân Hoàng gia New Zealand và có ba chiếc Mustang thuộc sở hữu cá nhân còn bay được tại nước này.[63] PhápVào cuối năm 1944, đơn vị Không quân Pháp đầu tiên đã chuyển sang sử dụng những chiếc Mustang trinh sát. Vào tháng 1 năm 1945, Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 2/33 của Không quân Pháp đã sử dụng những chiếc F-6C và F-6D bên trên lãnh thổ Đức trong các phi vụ không ảnh bản đồ. Những chiếc Mustang tiếp tục phục vụ cho đến đầu những năm 1950 khi chúng được thay thế bằng những chiếc máy bay tiêm kích phản lực.[52] PhilippinesPhilippine Air Force P-51D. The tailwheels were fixed in the extended position.Philippines đã nhận được 103 máy bay P-51 Mustang sau khi Thế Chiến II kết thúc, và chúng đã trở thành trở thành xương sống của Không lực Lục quân PhilippinesKhông quân Philippines; đã được sử dụng rộng rãi trong chiến dịch Huk chống lại các cuộc nổi dậy của Cộng sản nước này. Mustang cũng là kiểu máy bay đầu tiên được trang bị cho Phi đội Thao diễn hàng không Philippine, vốn được thành lập năm 1953 và được đặt tên là "The Blue Diamond" trong năm tiếp theo.[64] Chúng được thay thế bằng những chiếc F-86 Sabre vào cuối những năm 1950. Nam PhiKhông quân Nam Phi sử dụng một số chiếc Mustang I và II (P-51A) tại ÝTrung Đông trong Thế Chiến II. Không lâu sau ngày chiến thắng, những chiếc máy bay này bị tháo dỡ. Đến năm 1950, hai phi đội Không quân Nam Phi được trang bị những chiếc F-51D Mustang cung cấp bởi Hoa Kỳ để chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên. Những chiếc máy bay đã được thể hiện tốt trong tay các phi công Nam Phi trước khi được thay thế bởi những chiếc F-86 Sabre trong những năm 1952/1953.[52] Thụy ĐiểnSwedish Air Force P-51D on display at Swedish Air Force Museum.

Không quân Thụy Điển (Flygvapnet) ban đầu đã lấy được bốn chiếc P-51 (hai chiếc P-51B và hai chiếc P-51D đời đầu) vốn đã đổi hướng bay sang Thụy Điển khi gặp trục trặc trong những phi vụ tại châu Âu. Đến tháng 2 năm 1945, Thụy Điển đặt mua 50 chiếc P-51D và đặt tên chúng là J 26, được các phi công Hoa Kỳ giao hàng vào tháng 4 và được bố trí đến Phi đoàn F 16 tại Uppsala như những máy bay tiêm kích đánh chặn. Vào đầu năm 1946, Phi đoàn F 4 tại Östersund được trang bị lô thứ hai gồm 90 chiếc P-51D. Một lô cuối cùng gồm 21 chiếc được đặt mua vào năm 1948. Tổng cộng có tất cả 161 chiếc J 26 đã phục vụ trong Không quân Thụy Điển vào cuối những năm 1940. Có khoảng một tá máy bay được cải biến thành máy bay trinh sát hình ảnh và được đặt lại tên là S 26. Một vài chiếc trong số này đã tham gia các phi vụ trinh sát tối mật nhằm vẽ bản đồ các công trình quân sự Xô Viết mới xây dựng tại vùng bờ biển Baltic trong những năm 1946-1947 (Chiến dịch Falun), một kế hoạch đòi hỏi nhiều lần vi phạm có chủ đích không phận Xô Viết. Tuy nhiên, do chiếc Mustang có thể bổ nhào nhanh hơn mọi máy bay Xô Viết thời đó, không chiếc S 26 nào bị mất trong những phi vụ này.[65] Những chiếc J 26 đã được thay thế bằng kiểu máy bay De Havilland Vampire vào khoảng năm 1950, trong khi kiểu S 26 được thay thế bằng S 29C vào đầu những năm 1950.[52]

 Thụy SĩMột chiếc P-51 của Không quân Thụy Sĩ được phục chế.Không quân Thụy Sĩ đã sử dụng vài chiếc P-51 của Không lực Mỹ do chính phủ Thụy Sĩ chiếm được trong Thế Chiến II, sau khi các phi công gặp trục trặc đã bị buộc phải hạ cánh xuống nước Thụy Sĩ trung lập. Họ cũng đặt mua 130 chiếc P-51 với giá 4.000 Đô la Mỹ mỗi chiếc. Chúng phục vụ cho đến tận năm 1958.[52] Trung Hoa Dân QuốcMột số chiếc P-51C và D được gửi đến Trung Quốc vào đầu năm 1945, chúng được giao từ Không lực 10 Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Ấn Độ, và được trang bị cho các liên đội tiêm kích 5, 3 và 4 của Không quân Trung hoa Dân quốc để tấn công các mục tiêu Nhật Bản chiếm đóng tại Trung Quốc. Sau chiến tranh, chính phủ Trung Hoa dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đã dùng số máy bay này để chống lại lực lượng cộng sản Trung Quốc. Khi lực lượng Trung hoa Dân quốc rút lui khỏi lục địa, hầu hết trong số đó đã đến Đài Loan theo chân các phi công đi theo chính phủ quốc gia của Tưởng Giới Thạch, nơi chúng trở thành một phần của lực lượng phòng thủ hòn đảo. Đài Loan sau đó đã mua thêm những chiếc P-51 từ Không quân Hoa Kỳ và các nguồn khác. Tuy nhiên, một số chiếc P-51 cũng lọt vào tay Không quân Giải phóng quân Trung Quốc trong quá trình lực lượng Trung hoa Dân quốc rút lui khỏi lục địa.[52] Trung QuốcQuân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã sử dụng một số chiếc P-51 chiếm được từ quân đội Trung Hoa Dân Quốc khi họ tháo lui về Đài Loan.[52] ÚcNhững chiếc P-51D thuộc Phi đội 82 của Không quân Hoàng gia Úc tại Nhật Bản như là một phần của Lực lượng chiếm đóng Khối Thịnh vượng chung Liên hiệp Anh vào năm 1947.Đơn vị Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đầu tiên sử dụng Mustang là Phi đội 3, đã chuyển sang sử dụng chúng tại căn cứ của họ ở Ý vào tháng 11 năm 1944. Không quân Úc cũng quyết định thay thế những chiếc P-40 Kittyhawk tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương bằng những chiếc P-51, và đã đặt hàng tổng cộng khoảng 500 chiếc Mustang, vốn sẽ được Commonwealth Aircraft Corporation (CAC) chế tạo tại dây chuyền duy nhất bên ngoài nước Mỹ. Vào năm 1944, 100 chiếc P-51D được chở từ Mỹ sang dưới dạng linh kiện rời để mở đầu việc chế tạo tại Fishermans Bend, Melbourne. CAC lắp ráp 80 chiếc dưới tên gọi CA-17/Mark 20, trong khi 20 chiếc còn lại không được lắp mà giữ làm phụ tùng thay thế.CAC sau đó tự họ sản xuất thêm 120 chiếc P-51D (giảm bớt từ con số đặt hàng 170 chiếc ban đầu), được đặt tên CA-18/Mark 21, 22 hay 23. Không quân Úc sử dụng số hiệu có thêm chữ đầu A68 cho tất cả những chiếc P-51. Mk 22 là một phiên bản trinh sát hình ảnh, và Mk 21 và 22 sử dụng động cơ Packard V-1650-3 hoặc -7 do Mỹ chế tạo, trong khi Mk 23 được trang bị kiểu động cơ Anh quốc Merlin 66 hay 70 mới hơn. Thêm vào số đó, có 84 chiếc P-51K được chuyên chở trực tiếp từ Mỹ đến cho Không quân Úc. Tuy nhiên, chỉ có 17 chiếc Mustang đến được các phi đội hoạt động tiền phương của Không lực Chiến thuật 1 Úc vào lúc Thế Chiến II kết thúc vào tháng 8 năm 1945. Không quân Úc sau đó đã hủy bỏ các đơn đặt hàng của khoảng 200 chiếc Mustang.Nhiều phi đội đã được cung cấp kiểu máy bay P-51: 76, 77, 82, 83, 84 và 86, tất cả đều đã sử dụng P-40 Kittyhawk và đều chuyển sang P-51 từ tháng 7 năm 1945. Các phi đội 76, 77 và 82 đã hình thành nên Không đoàn Tiêm kích 81 thuộc Không quân Thịnh vượng chung Anh Quốc (BCAIR) là một phần của Lực lượng chiếm đóng Thịnh vượng chung Anh Quốc (BCOF) trú đóng tại Nhật Bản từ tháng 2 năm 1946. Phi đội 77 cũng sử dụng những chiếc P-51 một cách rộng rãi trong những nâm đầu tiên của Chiến tranh Triều Tiên trước khi chuyển sang sử dụng kiểu máy bay phản lực Gloster Meteor.[66]Một phi đội Không quân Úc khác cũng chuyển sang sử dụng Mustang là Phi đội 3, vốn không lâu sau khi chiến tranh kết thúc được đổi tên thành Phi đội Trinh sát Chiến thuật 4. Ngoài ra còn có những đơn vị "Không lực Dân sự" (CAF) (tương tự như Không lực Vệ binh Quốc gia của Hoa Kỳ): Phi đội 21 "City of Melbourne" đặt tại tiểu bang Victoria, Phi đội 22 "City of Sydney" tại tiểu bang New South Wales, Phi đội 23 "City of Brisbane" tại tiểu bang Queensland, Phi đội 24 "City of Adelaide" tại tiểu bang South Australia và Phi đội 25 "City of Perth" tại tiểu bang Western Australia. Những chiếc Mustang cuối cùng của các đơn vị này nghỉ hưu vào năm 1960 khi mọi đơn vị CAF chuyển sang đảm nhận các vai trò không bay.[67]Vào tháng 10 năm 1953, sáu chiếc Mustang trong đó có chiếc số hiệu A68-1, là chiếc thuộc phiên bản CA-17 Mk 20 được Úc sản xuất đầu tiên, được phân bổ vào Chương trình Phát triển Vũ khí Tầm xa đặt tại Maralinga, South Australia để được thử nghiệm về ảnh hưởng của những vụ nổ nguyên tử tầm thấp trên những cơ sở quân sự và dân sự. Những chiếc Mustang được đặt trên một sân bay giả cách tháp thử nghiệm khoảng 1 km (0,62 dặm) nơi hai quả bom nguyên tử được cho kích nổ. Sau cuộc thử nghiệm những chiếc Mustang hầu như không bị hư hại. Vào năm 1967, chiếc A68-1 được một tổ chức mua lại và được chở về Mỹ nơi nó được phục hồi lại trong tình trạng bay được: chiếc Mustang này hiện do Troy Sanders sở hữu (xem Những chiếc còn lại).[68] UruguayKhông quân Uruguay (FAU) sử dụng 25 chiếc F-51D Mustang từ năm 1950 đến năm 1960; một số chiếc sau đó được bán cho Bolivia.[52] ÝItalian P-51D Mustang.Sau chiến tranh Ý là một trong các nước có sử dụng P-51D; việc giao hàng bị chậm trễ do Chiến tranh Triều Tiên, nhưng giữa tháng 9 năm 1947tháng 1 năm 1951, theo chương trình viện trợ quân sự, 173 chiếc đã được giao. Chúng đã được sử dụng trong các đơn vị tiêm kích của Không quân Ý (AMI): Các Stormo (phi đoàn) số 2, 3, 4, 5, 6, và 51 và một số tại các trường huấn luyện và các đơn vị thử nghiệm. Được xem là một kiểu máy bay tiêm kích "quyến rũ", những chiếc P-51 còn được sử dụng như là phương tiện vận chuyển cá nhân của nhiều vị tư lệnh Ý. Một số hạn chế trong việc sử dụng đã được đặt ra do tính chất bay không thuận lợi của nó; việc điều khiển phải thận trọng khi thùng nhiên liệu được đổ đầy và nhiều kiểu cơ động thao diễn bị cấm. Nhìn chung, chiếc P-51D được đánh giá cao, kể cả khi so sánh với những kiểu máy bay tiêm kích hàng đầu của Ý trước chiến tranh và chiếc Supermarine Spitfire, một phần là do tình trạng của những chiếc P-51D khi được giao còn rất tốt so với những máy bay tiêm kích Đồng Minh khác được cung cấp cho Ý. Việc cho nghỉ hưu những chiếc Mustang được bắt đầu vào mùa Hè năm 1958.[69]

P-51 trong hàng không dân sự

Nhiều chiếc P-51 đã được bán ra do dư thừa sau chiến tranh, thường là với giá thấp đến mức 1.500 Đô la Mỹ. Một số được bán cho các cựu phi công thời chiến tranh hay những người hâm mộ để sử dụng cá nhân, trong khi một số khác được cải biến cho các cuộc đua hàng không.[70]

Chiếc "Excalibur III" của Charles Blair tại Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy (NASM)

Một trong những chiếc Mustang nổi bật từng tham gia các cuộc đua hàng không là chiếc P-51C-10-NT (số hiệu 44-10947) dư thừa được mua bởi Paul Mantz, một phi công đóng thế vai trong điện ảnh. Chiếc máy bay được cải biến để có kiểu "cánh ướt", cánh được làm kín để mang một thùng nhiên liệu lớn trong mỗi cánh, và do đó hạn chế được sự cần thiết phải hạ cánh để tiếp thêm nhiên liệu hay tăng thêm lực cản do các thùng nhiên liệu phụ mang bên ngoài. Chiếc Mustang này được đặt tên là "Blaze of Noon", đã về nhất trong các cuộc đua Bendix Air Race năm 19461947, về nhì giải Bendix năm 1948 và thứ ba giải Bendix năm 1949. Ông cũng lập một kỷ lục xuyên lục địa Mỹ vào năm 1947. Chiếc Mustang của Mantz được bán cho Charles Blair (sau này là chồng của Maureen O'Hara) và được đặt lại tên là "Excaliber III". Blair đã dùng nó để lập một kỷ lục bay từ New York sang Luân Đôn (khoảng 3.460 dặm/5.568 km) vào năm 1951. Cùng năm đó ông đã thực hiện một chuyến bay từ Na Uy đến Fairbanks, Alaska ngang qua Bắc Cực (khoảng 3.130 dặm/5.037 km), chứng minh rằng việc dẫn đường bằng ánh sáng mặt trời có thể thực hiện được khi bay ngang qua cực từ trường Bắc. Do kỳ công này, ông đã được trao tặng giải Harmon Trophy; và Không quân Mỹ buộc phải thay đổi quan điểm về một cuộc không kích của Xô Viết có thể được thực hiện từ phía Bắc. Chiếc Mustang này hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Hàng không và Không gianTrung tâm Steven F. Udvar-Hazy.

Một trong số nhiều chiếc P-51D Mustang tại triển lãm hàng không Oshkosh 2005, sơn màu của Liên đội Tiêm kích 352, Căn cứ Không quân Hoàng gia Bodney, Anh Quốc.P-51D thuộc Dixie Wing của Không quân Canada.

Doanh nghiệp nổi bật nhất trong việc chuyển đổi những chiếc Mustang sang sử dụng dân sự là Trans-Florida Aviation, một công ty sau đó được đổi tên thành Cavalier Aircraft Corporation, chuyên sản xuất những chiếc Cavalier Mustang. Những sự cải tiến bao gồm một cánh đuôi đứng cao hơn và thùng nhiên liệu phụ ở đầu cánh. Một số cải biến khác bao gồm một chiếc Cavalier Mustang khá đặc biệt: một chỗ ngồi thứ hai chật hẹp đặt nơi trước đây từng bố trí thiết bị liên lạc quân sự và thùng nhiên liệu trong thân.

Điều khôi hài là, vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 khi Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mong muốn cung cấp những chiếc máy bay cho các nước Nam Mỹ, và sau đó là Indonesia, để hỗ trợ gần mặt đấtchống bạo loạn, họ đã quay sang Cavalier để chuyển đổi ngược một số chiếc máy bay dân sự về tiêu chuẩn quân sự.

P-51 có lẽ là chiếc máy bay quân sự cổ (warbird) được săn lùng nhiều nhất trên thị trường dân dụng; giá trung bình thường vượt quá 1 triệu đô la Mỹ, ngay cả cho những chiếc chỉ được phục chế một phần.[71] Một số chiếc P-51 thuộc sở hữu cá nhân hiện vẫn còn bay được, thường là liên kết với các tổ chức như là Commemorative Air Force (trước đây là Confederate Air Force)[72]

Các bản sao thu nhỏ

P-51 là đối tượng được nhắm đến của một số bản sao thu nhỏ bay được; ngoài khác kiểu mô hình điều khiển bằng radio thông dụng và mô hình để trưng bày, còn có những chiếc máy bay thật thu nhỏ cỡ 1/2, 2/3 hoặc 3/4 kích thước thật, có một chỗ ngồi thoải mái cho phi công (đôi khi cho cả hai người) và cung cấp được tính năng bay cao cùng đặc tính bay rất đáng kể. Những chiếc máy bay đáng chú ý bao gồm Titan T-51 MustangThunder Mustang.

Những chiếc còn lại

Hiện có 287 khung máy bay và 154 chiếc Mustang còn bay được. Đáng chú ý là những chiếc sau đây:[73]

  • XP-51 41-038: Chiếc nguyên mẫu ban đầu được trưng bày tại Oshkosh.
  • P-51A-1NA Mustang đang được lưu giữ để phục hồi. Kermit Weeks, Polk City, Florida.
  • P-51A-10-NA Mustang còn bay được, mang tên "Miss Virginia" Planes of Fame, Chino, California [74]
  • A-36 Mustang, Planes of Fame, Chino, California
  • P-51C-10-NT Mustang còn bay được, mang tên "Ina the Macon Belle" của Trung úy Lee Archer, phi công Ách với 5 chiến công của Phi đội 302 thuộc Liên đội 332 "Tuskegee Airmen". Kermit Weeks, Tamiami, Florida.
  • P-51D (số hiệu 44-74936) được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa KỳDayton, Ohio. Nó là chiếc P-51 cuối cùng, đồng thời là chiếc máy bay cánh quạt cuối cùng hoạt động cùng Không quân Mỹ. Nó được chuyển đến từ lực lượng Không lực Vệ binh Quốc gia bang West Virginia vào tháng 1 năm 1957, và được sơn màu như là chiếc P-51D của Đại tá C.L. Sluder, chỉ huy trưởng Phi đoàn 325 ở Ý năm 1944. Cái tên "Shimmy IV" của chiếc máy bay này được ghép từ tên của con gái và vợ của ông, Sharon và Zimmy.[75]
  • P-51D Mustang, trong tình trạng còn bay được. Bảo tàng Hàng không Olympic. Olympia, Washing ton.
  • P-51D Mustang, trong tình trạng còn bay được. Bảo tàng Hàng không Indiana. Valparaiso, Indiana. Từng phục vụ cùng lực lượng Không lực Vệ binh Quốc gia các bang North Dakota, Alabama và Kentucky.
  • P-51 Mustang (Mk IV), Vintage Wings of Canada, Gatineau, Quebec.
  • P-51D Mustang, số hiệu N167F, Scandinavia Historic Flight, được sơn như chiếc "Old Crow," máy bay của Đại tá Clarence E. "Bud" Anderson, phi công Ách thuộc Phi đội 363, Liên đội 357 của Không lực 8.[76]
  • P-51D Mustang, số hiệu SE-BIL, "It's About Time," tại Thụy Điển.[77]
  • P-51D Mustang, (P-51D-20-NA), trong tình trạng còn bay được. Bảo tàng Hàng không Cavanaugh, Addison, Texas.
  • P-51D Mustang, 'Spam Can' Planes of Fame, Chino, California.
  • P-51D Mustang, 'Wee Willy II' Planes of Fame, Chino, California. "Ole Yeller" do John Bagley lái trong một buổi thao diễn hàng không tại Rexburg, Idaho.
  • P-51D Mustang đang trong quá trình phục chế. Planes of Fame, Chino, California.
  • P-51H Mustang số hiệu 44-64415, trong tình trạng còn bay được. Whittington Bros, Fort Lauderdale, Florida.
  • P-51D "Old Yeller", trong tình trạng còn bay được, trước đây do Bob Hoover sở hữu; hiện thời thuộc John Bagley tại Rexburg, Idaho và trưng bày tại Bảo tàng Hàng không Legacy.[78]
  • CA-17 Mk.20 số hiệu A68-1, N51WB 'Jeannie Too', trong tình trạng còn bay được. Wiley Sanders, Troy, Alabama.[79]
  • CA-18 Mk 21 số hiệu A68-104, VH-BOB, trong tình trạng còn bay được. Bob Eastgate, Úc.
  • P-51D Mustang, G-BTCD số hiệu 44-73419. Được sơn mô phỏng theo chiếc 44-13704, "Ferocious Frankie". Hiện đang được điều hành bởi Công ty Old Flying Machine, Duxford, Cambridgshire, Anh Quốc.[80][81]
  • P-51D Mustang, G-SIJJ, số hiệu 44-072035. Được sơn mô phỏng theo chiếc 4464076 "Jumpin Jacques". Hiện đang được điều hành bởi Hangar 11 Collection, North Weald, Anh Quốc.[82]
  • P-51 Mustang của Không quân Philippine, được sơn màu nguyên thủy với "miệng cá mập". Hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Không quân, Căn cứ Không quân Villamor, Pasay City, Philippines
  • P-51D Mustang "Never Miss", trong tình trạng còn bay được. Sân bay Salem, Salem, Oregon.
  • P-51D Mustang "Big Beautiful Doll" số hiệu đuôi 472218, được treo trưng bày tại Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc, Luân Đôn, Anh Quốc.
  • P-51D Mustang số hiệu N51DH, trong tình trạng còn bay được. Bảo tàng Hàng không và Không gian Evergreen, McMinnville, Oregon.
  • P-51D Mustang "Old Crow" số hiệu N451MG, trong tình trạng còn bay được. Trước đây thuộc quyền sở hữu của Jack Roush, Columbus, Ohio.
  • P-51D Mustang "Crusader" số hiệu N51JT, trong tình trạng còn bay được. Phi công Joe Thibodeau là chủ sở hữu. Sân bay Centennial tại Centennial, Colorado.